Description |
Lý phổ biến khắp ba miền đất nước, nhưng có lẽ phát triển nhất ở Nam Bộ. Trương Vĩnh Ký từng nhắc đến câu thành ngữ: “Nam lý Huế hò Bắc thơ” nhằm chỉ sở trường của người phương Nam. Trên thực tế, lý không chỉ chiếm số lượng dồi dào mà còn đạt đến trình độ nghệ thuật cao, kết tinh văn hóa dân gian và chuyên nghiệp Nam Bộ. |
Social and cultural significance |
Lý như dòng sông dạt dào tình cảm, chứa nhiều thông điệp từ miền dĩ vãng xa xưa của người đân Nam Bộ Việt Nam. Lý có khả năng tồn tại độc lập, thể hiện tính chất trình diễn. Có thể bắt gặp ở lý nội dung, đề tài của cuộc sống đa sắc, muôn màu muôn vẻ. Nó như tấm gương phản chiếu sự vật, hiện tượng, tư tưởng, tình cảm thân thương liên quan đến con người, từ chim muông, cỏ cây, hoa lá, dòng sông, bến nước, cây cầu, con tôm, con tép, ánh trăng, tình yêu… Tất cả hình ảnh thị giác và cảm quan vô hình đều ẩn hiện qua lời ca, câu hát.
Thực hiện nghiên cứu: Lê Hải Đăng
Dịch giả: Hà Hoàng Minh Trang |
Transmission method |
So với những gì mô tả đầu thế kỷ 20 trong tư liệu, rõ ràng môi trường diễn xướng Nam Bộ đã thay đổi đến mức kinh ngạc. Cảnh trai gái hò hát đối đáp, tự tình trên sông nước, tất cả đều đã chìm vào dĩ vãng. Ngay cả lời ru cũng đã tắt lịm trên môi người mẹ, thất lạc trong ký ức người con. Văn hóa với đặc trưng thay đổi, nên, trong môi trường văn hóa mới, chúng ta cũng có thể mở ra một vùng diễn xướng dân gian Nam Bộ co giãn, hữu tình theo những biến chuyển nhịp nhàng của đời sống. Mạng internet tuy ảo, nhưng đủ thật để tạo nên không gian bát ngát cho lời ru, điệu lý, câu hò dập dìu, tình tự trải dài qua miền xúc cảm mênh mông. |
Community |
Nam Bộ có nhiều tộc người cùng sinh sống, như người Việt, người Kh’mer, người Chăm, người Hoa, người Châu Ro, người S’tiêng, người Mạ… Bởi vậy, diễn xướng dân gian Nam Bộ bao gồm toàn bộ di sản văn hóa của các tộc người cư trú trên một vùng đất. Tuy nhiên, dự án “Phong hoa ca vịnh” chỉ giới hạn đối tượng vào các loại hình diễn xướng của người Việt, mà cụ thể là hát ru, hò và lý. |